|
Friday, November 22, 2024 2:59:45 AM - Markets closed
|
|
|
|
|
|
Investopedia
Investopedia là bộ từ điển các khái niệm, thuật ngữ tài chính đầy đủ toàn diện, được tổ chức một cách khoa học, tiện lợi cho việc tra cứu.
|
|
|
|
Mô hình xác định giá trị của tài sản vốn - Capital Asset Pricing Model
CAPM được ba nhà nhà kinh tế học William Sharpe, John Lintner và Jack Treynor đưa ra v ào những năm giữa thập niên 60. CAPM là mô hình mô tả mối tương
quan giữa rủi ro và thu nhập kì vọng, được sử dụng để định giá các
chứng khoán có mức độ rủi ro cao. Công thức tính toán như sau:
ks = Rrisk free + Beta * (Rmarket - Rrisk-free)
với ks là lãi suất kỳ vọng trên cổ phiếu.
Trong đó:
- Beta là chỉ số phản ánh rủi ro thị trường của một cổ phiếu. Beta có thể được dự đoán dựa trên các số liệu quá khứ
- Rrisk free là tỷ lệ phi rủi ro, và thường là lãi suất trái phiếu chính phủ vì loại lãi suất này được coi là không có rủi ro thanh toán (Rủi ro mặc định - default risk)
- Rmarket là thu nhập thị trường kỳ vọng qua thời gian (expected market return over a period of time), thường được tính toán hoặc cho sẵn.
Giả định khi sử dụng mô hình CAPM:
- Thị trường hiệu quả
- Nhà đầu tư luôn sở hữu một danh mục đầu tư (portfolio) đa dạng hoá
Ý tưởng chung đằng sau mô hình định giá tài sản vốn là các nhà đầu tư
khi tiến hành đầu tư vốn của mình vào bất cứ tài sản gì thì cũng được
bù đắp lại theo hai cách: giá trị tiền tệ theo thời gian và rủi ro.
Giá trị tiền tệ theo thời gian thể hiện thông qua tỷ lệ phi rủi ro (Rrisk free)
trong công thức và khi dùng tiền để đầu tư vào bất cứ hoạt động nào thì
nhà đầu tư sẽ được hưởng sự bù đắp này. Phần còn lại trong công thức
thể hiện tỷ lệ rủi ro và tính toán các khoản khác mà nhà đầu tư được
hưởng vì đã chấp nhận một tỉ lệ rủi ro cao hơn. Khoản bù đắp này được
tính toán thông qua tỉ lệ rủi ro (beta) được sử dụng để so sánh thu
nhập từ tài sản so với thu nhập thị trường kì vọng qua một khoảng thời
gian (expected market return over a period of time) và với mức đền bù
rủi ro thị trường (market premium - Hiệu Rmarket - Rrisk-free).
Mô hình định giá
tài sản vốn phát biểu rằng: thu nhập kì vọng của một loại chứng khoán
hay danh mục đầu tư sẽ ngang bằng với mức trên các chứng khoán phi rủi
ro cộng thêm khoản lợi tức bù rủi ro nữa. Nếu thu nhập kì vọng không
đạt mức thu nhập tối thiểu yêu cầu, khi đó nhà đầu tư sẽ không tiến
hành đầu tư. Các đường SML (Security Market Line - đường biểu diễn rủi ro của thị trường chứng khoán) sẽ thể hiện kết
quả của CAPM đối với các mức rủi ro khác nhau (các betas khác nhau).
Sử dụng
mô hình CAPM cùng các giả định, chúng ta có thể ước tính được thu nhập
kì vọng trên một cổ phiếu.
Ví dụ: giả sử rằng tỉ lệ phi rủi ro là 3%, tỉ
lệ rủi ro là 2%, thu nhập thị trường kì vọng qua thời gian là 10%, khi
đó thu nhập kì vọng trên cổ phiếu là 3%+2*(10%-3%) = 17%.
Mô hình CAPM không phải là mô hình duy nhất dự báo tỷ suất sinh lợi nhưng nó có nền tảng lý thuyết vững chắc. Mặc dù có nhiều tranh luận và nghiên cứu về tính ổn định của beta cũng như những kiểm định thực nghiệm về mô hình CAPM nhưng về cơ bản CAPM được xem là hiệu quả và đã tồn tại suốt 40 năm qua.
Trong những nghiên cứu gần đây, mô hình CAPM đã được bổ sung những nhân tố khác nhằm có thể dự báo tỷ suất sinh lợi một cách chính xác hơn. Những bằng chứng thực nghiệm cho thấy ngoài beta còn có các biến như tỷ số giá trên thu nhập (P/E) và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (P/B). Đặc biệt trong thị trường các nước mới nổi, sự tác động của tỷ số giá trên thu nhập (P/E) và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (P/B) lên tỷ suất sinh lợi chứng khoán là khá rõ nét. Cùng với mô hình CAPM, P/E và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách được dùng như là các công cụ dự báo tỷ suất sinh lợi chứng khoán trên thị trường các nước mới nổi. Điều này hàm ý một mô hình CAPM đa biến với các biến là: beta, P/E và PBV.
Mô hình CAPM cải tiến là một nỗ lực để khám phá ra các công cụ như chỉ số P/E và P/B để dự báo tỷ suất sinh lợi thị trường trung bình trong thời kỳ dài. Tuy nhiên, việc ứng dụng mô hình này vào dự báo tỷ suất sinh lợi trên thị trường các nước mới nổi nói chung và vào thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng sẽ có những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, hàng hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam quá nghèo nàn về chủng loại, ít ỏi về số lượng và đặc biệt là thiếu các hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư có thể yên tâm đầu tư lâu dài. Mặc dù đã có những giải pháp và nỗ lực từ phía Nhà nước nhằm tạo thêm sự phong phú về hàng hóa cho thị trường chứng khoán nhưng hiệu quả thực sự là chưa cao. Vì thế, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệc là những nhà đầu tư chuyên nghiệp và có nguồn lực tài chính lớn.
Thứ hai, sự thiếu vắng hệ số beta trong việc phân tích rủi ro của các chứng khoán. Nói cách khác, các nhà đầu tư chưa chú trọng đến hệ số beta trong việc đánh giá chứng khoán. Hiện nay, trên website các công ty chứng khoán có liệt kê những tỷ số cơ bản về tài chính và so sánh với tỷ số trung bình thị trường. Một số trang web cũng đề cập đến hệ số beta trong danh mục khái niệm các chỉ số tài chính cần phân tích (ví dụ công ty chứng khoán VNDIRECT), nhưng chưa thực sự có ý định sử dụng nó. Phần lớn chỉ là nêu những chỉ số tài chính chung có liên quan đến danh lợi như chỉ số lợi nhuận/vốn (ROE), lợi nhuận thuần/doanh thu, lợi nhuận/tài sản, hoặc liên quan đến tình hình vay nợ như tổng vay nợ trên vốn hoặc liên quan đến giá chứng khoán và lợi nhuận như P/E, ngoài ra không thấy những chỉ số như tỷ số giá thị trường so với giá sổ sách (P/B), beta…
Do sự tác động của nhiều nhân tố phi thị trường nên vai trò của beta còn tương đối hạn chế. Tuy nhiên, khi danh mục thị trường ngày càng hoàn thiện, beta sẽ phát huy tác dụng và theo kịp với sự phát triển của thị trường. Thông qua hệ số beta và các tỷ số thị trường khác như (P/B)…, doanh nghiệp sẽ nhìn nhận rõ hơn về rủi ro và năng lực cạnh tranh của chính bản thân mình. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng có điều kiện để ứng dụng những kỹ thuật phân tích và dự báo một cách hiệu quả hơn, gần với kỳ vọng hơn. Khi tính toán và sử dụng hệ số beta, việc nghiên cứu và sử dụng những mô hình dự báo sẽ trở thành hiện thực hơn chứ không nằm trên lý thuyết nữa.
Thứ ba, các mô hình dự báo chỉ được vận hành tốt khi các nhà đầu tư có được thông tin ngang bằng nhau, thông tin không bị rò rỉ và vì thế minh bạch hóa thông tin là điều kiện tiên quyết để phát triển thị trường chứng khoán. Đây chính là nguyên tắc công khai, được coi là một nguyên tắc quan trọng nhất của thị trường chứng khoán. Có thể nói, nếu không có một hệ thống công bố thông tin hoạt động theo đúng yêu cầu thì thị trường chứng khoán không thể vận hành được.
|
|
Duyệt các danh mục Investopedia
|
|
|
|
|
|
Market Update
Last updated at 3:05:01 PM
|
|
|
|
|
|