Kỳ xem xét hành chính lần thứ 12 (POR 12) đối với vụ việc chống bán phá tôm Việt Nam kết thúc với kết quả là các công ty bị đơn đều bị áp thuế 4,58%. Đây được xem là tín hiệu tốt cho ngành tôm Việt Nam vì thuế suất cuối cùng thấp hơn nhiều so với mức thuế sơ bộ của POR 12 (25,39%) và so với mức thuế cuối cùng của POR 11 (25,76%).
Theo đó, xuất khẩu tôm được dự kiến sẽ hồi phục mạnh trong các tháng còn lại của năm 2018 và năm 2019, báo cáo của VDSC cho hay. Tuy nhiên, VDSC cho rằng vẫn còn một rào cản phức tạp hơn mà các nhà xuất khẩu Việt Nam phải vượt qua, đó là Chương trình Giám sát Thủy sản Nhập khẩu (SIMP) có hiệu lực từ ngày 1/1/2019.
Theo Chương trình này, tôm xuất khẩu sang Mỹ phải tuân thủ theo bộ quy tắc mới về cơ sở truy nguyên nguồn gốc. Dữ liệu của toàn bộ quá trình từ việc nuôi trồng hay đánh bắt đến khi nhập khẩu vào thị trường này phải được khai báo và lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia (NOAA).
VDSC đánh giá rằng SIMP có thể gây ra hai trở ngại lớn đối với ngành tôm khi chương trình này được áp dụng vào thực tế.
Thứ nhất, NOAA yêu cầu nhà nhập khẩu Mỹ thay mặt cho nhà xuất khẩu Việt Nam khai báo thông tin, đồng nghĩa rằng nhà nhập khẩu có trách nhiệm làm việc với chính quyền Mỹ nếu có bất kì vấn đề nào xảy ra liên quan đến sản phẩm của nhà xuất khẩu. VDSC cho rằng việc tìm được một nhà nhập khẩu như vậy đối với các nhà xuất khẩu ở Việt Nam không dễ dàng.
Các nhà xuất khẩu Việt Nam vẫn còn một lựa chọn khác là có thể thành lập pháp nhân và thực hiện đăng ký kinh doanh tại Mỹ, sau đó sẽ khai báo cho công ty mẹ tại Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết các nhà xuất khẩu không đủ mạnh về tài chính để lựa chọn phương án này, theo VDSC.
Trở ngại lớn nhất là yêu cầu nhà xuất khẩu phải chứng minh nguồn gốc tôm nguyên liệu mua từ nông dân hay ngư dân nếu khối lượng mua lớn hơn 1.000 kg mỗi ngày, với bằng chứng bao gồm địa điểm canh tác và giấy phép nuôi tôm.
Tại Việt Nam, các công ty khi mua tôm từ bên ngoài chỉ quan tâm đến dư lượng, kích thước, chủng loại,… và không yêu cầu nông dân phải có giấy phép nuôi trồng. Ngoài ra, phần lớn người nuôi tôm là các hộ gia đình và luật pháp không yêu cầu họ phải có giấy phép nuôi trồng thủy sản. Trong khi đó, theo Nghị định 59/2005/NĐ-CP về các điều kiện sản xuất và kinh doanh một số ngành nghề thủy sản, yêu cầu quan trọng nhất để được cấp giấy phép nuôi trồng thủy sản là các trang trại phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật về nuôi trồng, các tiêu chuẩn vệ sinh thú y, vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật hiện hành.
Theo tìm hiểu của VDSC, hầu hết các trang trại nuôi tôm quy mô hộ gia đình hiện nay không đáp ứng được điều kiện này. Phần lớn trại không có hệ thống xử lý nước thải do quỹ đất hạn hẹp nên các hộ này không đủ điều kiện được cấp giấy phép. Đầu tư để đạt các tiêu chuẩn nuôi trồng đòi hỏi vốn lớn ngoài khả năng tài chính của các hộ nông dân.
Mặt khác, nguồn vốn vay ngân hàng hạn chế do các ngân hàng e ngại rủi ro lớn trong lĩnh vực thủy sản trong khi các hộ không còn tài sản có giá trị lớn để thế chấp sau khi đã thế chấp sổ đỏ để vay vốn nuôi tôm trước đây, VDSC cho biết. Bên cạnh đó, việc các hộ nông dân chuẩn hóa hoạt động nuôi trồng và/ hoặc hợp tác với nhau để đi đến một giải pháp toàn diện và dài hơi sẽ cần rất nhiều thời gian.
VDSC nhận định thời gian từ nay đến khi SIMP có hiệu lực là quá ngắn để có thể thay đổi tình hình hiện tại. Do đó, xuất khẩu tôm Việt Nam vào Mỹ có thể sụt giảm trong các tháng đầu năm 2019.
Phan Vũ
Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc.